Ngôn ngữ Viet Nam English
Sản phẩm mới
Nhận bản tin
Vui lòng nhập email để nhận bản tin
Kiến thức chăn nuôi -> Chăn nuôi Trâu, Bò
[CHĂN NUÔI] Kỹ thuật chọn giống bò sữa

Giống bò quyết định 60% sự thành bại của việc chăn nuôi bò sữa. Để có được bò tốt, người chăn nuôi cần nắm rõ về giống bò sữa, kỹ thuật chọn lựa một bò giống tốt.

1. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sản xuất của bò sữa

Giống bò đóng vai trò rất quan trọng trong khả năng sản xuất sữa của bò. Tuy nhiên, các giống bò thuần của nước ta năng suất sữa không cao trong khi các giống bò sữa cao sản hiện nay trên thế giới đa số đều có nguồn gốc từ các nước ôn đới, nên khi nhập nội vào nước ta thì bị ảnh hưởng rất nhiều bởi các yếu tố khách quan: nhiệt độ, ẩm độ, dinh dưỡng, chăm sóc…

Trong điều kiện khí hậu nhiệt đới như nước ta: Nhiệt độ và ẩm độ cao là một trong những yếu tố hạn chế đối với năng suất sữa của các giống bò. Vì vậy, để hạn chế sự tác động của điều kiện môi trường, người ta thường sử dụng phương pháp lai tạo giữa các giống bò ngoại với bò địa phương kết hợp với việc cải tạo điều kiện tiểu khí hậu và cải thiện chế độ chăm sóc nuôi dưỡng. Một giống bò cao sản thường đòi hỏi  nhu cầu về thức ăn, nước uống nhiều hơn, chất lượng tốt hơn để đáp ứng cho nhu cầu về sản xuất. Cải thiện con giống phải gắn liền với việc cải thiện chăm sóc nuôi dưỡng, chuồng trại và vệ sinh thú y. Bởi vì, trong điều kiện nhiệt độ và độ ẩm cao sẽ làm giảm độ ngon miệng của bò, bò sẽ ăn ít hơn; mặt khác chất lượng thức ăn ở vùng khí hậu nóng ẩm thường có chất lượng kém hơn vùng ôn đới nên bò thường không được cung cấp đầy đủ dinh dưỡng so với nhu cầu. Khí hậu nóng cũng sẽ gây những stress nhiệt, làm ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của bò.

Một bò sữa giống tốt, chỉ có thể cho năng suất sữa tối đa khi được nuôi dưỡng tốt, cho ăn khẩu phần đáp ứng đầy đủ nhu cầu của bò; chuồng trại thông thoáng, sạch sẽ, mát mẻ; thú khỏe mạnh, không mắc bệnh, được tiêm phòng theo các quy định và khuyến cáo của cơ quan thú y, và khai thác hợp lý.

2. Cách chọn mua một con bò sữa tốt

Muốn mua được bò sữa tốt ta phải biết cách chọn bò theo những tiêu chí nhất định. Có nhiều cách chọn bò, tốt nhất là kết hợp giữa các cách sau đây:

Cách 1: Chọn bò sữa theo hệ phả.

Phương pháp này là dựa vào các tính năng sản xuất của ông, bà, bố, mẹ. Bởi vì, khi thế hệ ông, bà, bố, mẹ tốt thì mới cho thế hệ con tốt, đồng thời xác định được khả năng thích nghi của bò với khí hậu nước ta để có thể chăm sóc hợp lý. Hiện nay ở nước ta phương pháp này còn nhiều hạn chế vì không có những ghi chép cụ thể, đầy đủ, chính xác lý lịch, mức tăng trưởng cơ thể, năng suất và chất lượng sữa của từng con qua từng thế hệ.

Cách 2: Chọn bò sữa theo ngoại hình và sự phát triển cơ thể

Trong quá trình sinh trưởng, phát triển, những con bò bệnh tật và còi cọc thì khi lớn lên sẽ không thể là những con bò sữa tốt. Chính vì vậy, khi chọn bò sữa ta phải chọn những con lớn nhanh, khoẻ mạnh. Khối lượng cơ thể của bò phải phù hợp với từng độ tuổi và với giống tương ứng. Bằng quan sát, ta có thể biết được tình trạng phát triển cơ thể và thậm chí có thể ước lượng được khối lượng của nó. Khi quan sát bò sữa để lựa chọn, cần chú ý đến hình dáng và sự cân đối của các phần cơ thể (đầu, mình, tứ chi) và đặc biệt chú ý đến sự phát triển của bầu vú.

Bò sữa tốt có cơ thể "hình cái nêm", thân sau phát triển hơn thân trước, đầu thanh, nhẹ, mõm to, mũi to, cổ dài vừa phải, sườn nở, ngực sâu, hông rộng, các đầu xương nhìn rõ. Vai, lưng và hông không võng và rộng dần về phía xương chậu, mông phẳng, rộng và dài. Bốn chân khoẻ, chân sau thấp hơn chân trước, không chụm khoeo. Bầu vú cân đối, phát triển nhưng không chảy, bốn núm vú dài, to vừa phải và đều đặn. Tĩnh mạch vú to, dài, có nhiều nếp gấp khúc. Sau khi vắt sữa, sờ vào vú thấy mềm mại, chứng tỏ bầu vú chứa nhiều nang tuyến, chứ không chứa nhiều mô liên kết (khi sờ vào thấy rắn). Bò sữa có bầu vú nhiều nang tuyến thì có khả năng tiết sữa tốt hơn.

Cách 3: Chọn theo năng suất và các tính năng sản xuất sữa

Tức là chọn những con cho năng suất sữa cao và có chất lượng sữa tốt (tỷ lệ mỡ sữa cao), tương ứng đối với từng giống. Tính tình và khả năng vắt sữa của con bò cũng rất quan trọng. Nên chọn những con bò hiền lành, dễ gần. Đối với những con bò đã đẻ, ngoài tính tình hiền lành ra, cần chú ý chọn những con dễ vắt sữa, sữa xuống nhanh.

3. Một số giống bò sữa cao sản đang được sử dụng tại Việt Nam.

Các giống bò ngoại có năng suất sữa rất cao 5000 – 9000 kg/ chu kỳ sữa. Tuy nhiên các giống bò này thường có nguồn gốc từ vùng ôn đới nên khả năng thích nghi với điều kiện khí hậu nước ta kém, đòi hỏi một quy trình chăm sóc nuôi dưỡng nghiêm ngặt về nhiệt độ, ẩm độ, dinh dưỡng, cách chăm sóc. Để giải quyết khó khăn trên, các nhà di truyền học đã cho lai cải tiến giữa các giống bò nội với các giống bò cao sản ngoại để tạo ra con lai có năng suất sữa cao và khả năng thích nghi tốt. Tùy theo điều kiện chăm sóc mà lựa chọn giống có % máu lai phù hợp để cải thiện năng suất. Do đó, nhà chăn nuôi nên cân nhắc đến hiệu quả kinh tế để chọn lựa giống bò phù hợp nhất.

Bò Holstein Friesian (còn gọi là bò lang trắng đen, bò Hà lan – Viết tắt HF). Trên thế giới có rất nhiều giống bò sữa, nhưng tốt nhất và phổ biến nhất vẫn là giống bò Holstein Friesian (HF). Bò HF (thường gọi là bò Hà Lan) là giống bò có nguồn gốc từ vùng Holland, Hà Lan (Holland - Netherland). Đây là giống bò có màu lang trắng đen, năng suất cao và được nuôi rộng rãi trên nhiều vùng sinh thái khác nhau (do thích nghi cao). Mặc dù có nguồn gốc ôn đới nhưng đã được nuôi lai tạo thành những dòng có thể nuôi được ở các nước nhiệt đới. Bò HF có màu lang trắng đen, tầm vóc lớn (khối lượng con cái từ 500 – 600 kg). Dáng thanh, hình nêm bầu vú phát triển, sinh sản tốt, tính hiền lành, khả năng sản xuất sữa rất cao. Tại Pháp: năng suất sữa trung bình khoảng 20 kg/con/ngày (6000 kg cho một chu kỳ sữa 300 ngày), có con đạt 9000 kg/chu kỳ sữa. Tại Việt Nam, một số bò HF thuần được nuôi tại Đức Trọng (tỉnh Lâm Đồng) có năng suất đạt 5000 kg/chu kỳ sữa. Tại Việt Nam, có nhiều loại tinh  giống bò Holstein Friesian đã và đang được sử dụng, nguồn nhập  từ các nước như Canada, Pháp, Mỹ, Cu Ba, Nhật, Hàn Quốc,… Thông thường thì các nước đều phát triển giống bò HF tại nước mình và đặt tên riêng như Holstein Francaise (Holstein Pháp), Holstein American (Holstein  Mỹ), Holstein Canada (Holstein Ca na đa).

Bò Jersey.  Bò Jersey có nguồn  gốc từ đảo Jersey của nước Anh. Giống bò này nổi tiếng về hàm lượng bơ trong sữa cao (trung bình 4,5 – 5,4%). Người ta thường dùng giống này lai tạo với giống HF để nâng cao tỷ lệ bơ trong sữa. Đây là giống bò tương đối nhỏ con, khung xương nhỏ (khối lượng con cái chỉ 350 – 450 kg). Thường có màu vàng nhạt đến hơi đậm. Đặc điểm nhận dạng rõ nhất là sống mũi gãy và mắt to lộ. Năng suất bò Jersey đạt khoảng 4500 – 5000 kg/chu kỳ. Đây là một giống bò thích nghi rất tốt, đặc biệt là nơi có khí hậu khô nóng. Vì vậy, bò Jersey đã được sử dụng trong công thức lai tạo giống bò sữa ở nhiều nước nhiệt đới trên thế giới trong đó có nước ta.

Bò Nâu Thụy Sĩ (Brown Swiss). Bò Nâu Thụy Sĩ có nguồn gốc từ miền trung tâm và đông Thụy Sĩ. Đây là giống bò tương đối lớn con (khối lượng con cái từ 600 – 700 kg). Bò có màu nâu nhạt đến xám và đặc biệt là màu da tai trong và quanh mũi thường có màu trắng. Năng suất sữa khoảng 5500 – 6000 kg/chu kỳ. Đây cũng là giống bò có khả năng thích nghi rất tốt.

Bò Red Sindhi. Bò Sind thuần có nguồn gốc từ vùng Malir, ngoại vi Karachi của Pakistan. Bò Sind thường có màu từ đỏ đến nâu cánh dán, thường có một vài đốm trắng trên trán và yếm. Bò có u, yếm phát triển. Sừng  cong hướng lên trên. Bò có trọng lượng trung bình. Khối  lượng bò cái trưởng thành từ 250–350kg, bò đực từ 400–550kg. Tuổi đẻ lần đầu vào khoảng  30–40 tháng. Sản lượng sữa trung bình từ 680–2300 kg /chu kỳ. Chu kỳ cho sữa kéo dài từ 270–400 ngày. Tỉ lệ béo trong sữa vào khoảng 4–5%. Có bò cái được ghi nhận với năng suất 5500 kg /chu kỳ. Bò  thích nghi tốt với điều kiện khí hậu nóng và sức đề kháng bệnh cao.

Bò Sahiwal. Bò Sahiwal thuần có nguồn gốc từ vùng Montgomery, Tây Punjab của Pakistan. Bò Sahiwal thường có màu từ nâu đỏ đến nâu cánh dán, đỏ nhạt, thường có một vài đốm trắng trên thân mình. Bò có u, yếm phát triển. Sừng nhỏ và bò cái thường không có sừng. Tai bò Sahiwal to và thường có lông đen ở rìa tai. Bò có trọng lượng trung bình; trọng lượng bò cái trưởng thành từ 270–400 kg, bò đực trưởng thành từ 450–590 kg.  Tuổi đẻ lần đầu vào khoảng  30–40 tháng. Sản lượng sữa trung bình từ 1100–3100 kg /chu kỳ. Chu kỳ cho sữa kéo dài từ 290–490 ngày. Tỉ lệ béo trong sữa vào khoảng 4–5 %. Có bò cái được ghi nhận với  năng suất  4500 kg /chu kỳ. Bò  thích nghi tốt với điều kiện khí hậu nóng và sức đề kháng bệnh cao.

Bò lai Sind. Bò lai Sind là kết quả lai tạo giữa giống bò Sind có nguồn gốc từ Pakistan với bò Vàng  địa phương. Bò lai Sind được dùng làm bò nền để lai với các giống bò sữa tạo ra bò lai hướng sữa. Bò lai Sind có màu vàng hay vàng cánh gián, có u, yếm phát triển. U, yếm càng phát triển, màu vàng càng đậm, tỉ lệ máu bò Sind càng cao, bò càng tốt. Bò lai Sind có tầm vóc lớn (Khối lượng bò cái trên 250 kg) đầu thanh nhỏ, phần sau phát triền, vú to, núm vú mềm, sinh sản tốt, đẻ con dễ, tính hiền. Năng suất cho sữa trung bình khoảng 1200–1500 kg/chu kỳ. Có con đạt năng suất trên 2000 kg/chu kỳ. Khi chọn bò lai Sind làm nền để lai tạo ra bò lai hướng sữa, phải chọn bò có tỉ lệ máu lai Sind cao (u, yếm phát triển) và khối  lượng trên 220 kg.

Bò lai Holstein Friesian F1 (50% HF). Gieo tinh bò HF cho bò cái nền lai Sind để tạo ra bò HF F1. Bò  lai HF F1 thường có màu đen tuyền (đôi khi đen xám, đen nâu). Tầm vóc lớn (khối lượng bò cái khoảng 300–400 kg), bầu vú phát triển, thích nghi với điều kiện môi trường chăn nuôi của Việt Nam. Năng suất sữa trung bình khoảng 8–9 kg/ngày (2700 kg/chu kỳ). Có một số bò lai HF F1 nuôi tại TP.HCM đạt sản lượng trên 4000 kg /chu kỳ (năng suất trung bình từ 14–15 kg/con/ngày).

Bò lai Holstein Friesian F2 ( 75% HF). Bò cái HF F1 được tiếp tục gieo tinh bò HF để tạo ra bò lai HF F2. Bò lai HF F2 thường có màu lang trắng đen (màu trắng ít hơn). Bò cái có tầm vóc lớn (380 – 480 kg), bầu vú phát triển, thích nghi tốt với điều kiện chăn nuôi tại Việt Nam. Năng suất sữa bình quân khoảng 10–12 kg/ngày (3000–3600 kg/chu kỳ), có thể đạt 15 kg/ngày (4500 kg/chu kỳ). Có một số bò lai HF F2 nuôi tại TP.HCM, Bình Dương đạt sản lượng trên 5000 kg /chu kỳ.

Bò lai Holstein Friesian F3 (87,5% HF). Bò cái HF F2 được tiếp tục gieo tinh bò HF để tạo ra bò lai HF F3. Bò lai HF F3 thường có màu lang trắng đen (màu trắng nhiều hơn). Bò cái có tầm vóc lớn (400–500 kg), bầu vú phát triển. Bò thích nghi kém hơn, nhưng nếu đuợc nuôi dưỡng chăm sóc tốt thì vẫn cho năng suất cao. Năng suất sữa bình quân khoảng 13–14 kg/ngày (3900–4200 kg/chu kỳ), có thể đạt 15 kg/ngày (4500 kg/chu kỳ). Có những bò cao sản nuôi tại TP.HCM và Bình Dương đạt sản lượng hơn 6000 kg/chu kỳ. Tuy nhiên, cần đánh giá đúng về hiệu quả (năng suất và kinh tế) của việc nuôi bò lai HF F3 trong điều kiện chăn nuôi nông hộ. Nếu hộ nào có điều kiện đầu tư về chuồng trại, hệ thống cải thiện điều kiện tiểu khí hậu, chăm sóc nuôi dưỡng, thú y… thì nuôi được bò lai HF F3. Nếu hộ nào không có điều kiện, thì tốt nhất chỉ nên nuôi ở mức độ lai máu HF F2.

Bò AFS (Australian Friesian Sahiwal). Bò AFS có nguồn gốc từ bang Queensland, Australia. Bò AFS được lai tạo từ bò Holstein và bò Sahiwal. Sau thời gian chọn lọc (hơn 50 năm) giống AFS được cố định máu và được công nhận là một giống bò sữa mới. Bò AFS kết hợp được khả năng sản xuất sữa cao của giống bò Holstein và khả năng chống chịu các bệnh ký sinh trùng, thích nghi với điều kiện khí hậu nhiệt đới của bò Sahiwal. Bò AFS Appendix có tỉ lệ máu Holstein là 75% ( tương tự như bò Lai Holstein F2). Bò AFS có màu sắc phân ly cao. Bò có màu từ vàng đậm đến màu đen, màu lang trắng đen tương tự như giống bò lai HF F1 (50% HF) và HF F2 (75 %HF). Trọng lượng bò cái khoảng 450–550 kg. Sản lượng  sữa trung bình 4200 kg/chu kỳ 300 ngày.

Phòng Kỹ Thuật - Marketing - Công Ty TNHH NHÂN LỘC