Ngôn ngữ Viet Nam English
Sản phẩm mới
Nhận bản tin
Vui lòng nhập email để nhận bản tin
Kiến thức chăn nuôi -> Nuôi dưỡng Thú cưng
Bệnh dại

Bệnh dại là bệnh do virus dại (rabies virus) gây nên. Đây là một bệnh truyền nhiễm virus cấp tính của hệ thần kinh trung ương dẫn đến tử vong. Bệnh dại đã được ghi nhận từ thời cổ xưa, mô tả từ cách đây hơn 3000 năm và là một bệnh truyền nhiễm đáng sợ, có thể gặp ở tất cả động vật có vú. Bệnh lây truyền chủ yếu do các chất tiết bị nhiễm, thường do vết cắn, vết liếm của động vật mắc bệnh dại.

Virus dại thuộc họ Rhabdovirus, giống Lyssavirus, ARN virus, hình viên đạn, có vỏ bọc, kích thước 60 – 80 nm.

 + Thú cảm thụ: Phần lớn virus dại có ở chó hoang dã và chó nhà. Ngoài ra còn có ở mèo, chồn, cầy, dơi và những loài động vật có vú khác. Ở Việt Nam ổ chứa chủ yếu ở chó nhà, hiếm thấy ở mèo.

+ Cách xâm nhập: Virus có thể xâm nhập qua vết cắn giữa thú mang bệnh với các loài khác kể cả người.Virus cũng có thể xâm nhập qua vết trầy, vết xây xát ngoài da, cũng như qua niêm mạc mắt, mũi và miệng. Ngoài ra, còn lây qua đường hô hấp (gặp ở Nam Mỹ khi người vào hang động có loài dơi mang virus dại cư trú).

+ Cách sinh bệnh

Sau khi xâm nhập trong mô, virus nhân lên tại chỗ, đặt biệt trong cơ. Sau 1 thời gian virus bắt đầu phát tán, chúng đến tế bào cơ và những dây chằng tận cùng thần kinh. Virus nhân lên trong những tế bào hạch thần kinh, dây thần kinh, tùng thần kinh. Ngoài mô thần kinh, virus còn nhân lên trong biểu mô của tuyến nước bọt, giác mô, da, dịch tiết nước bọt cơ lưỡi… Như vậy sau khi thực hiện sự xâm lấn ly tâm từ hệ thần kinh, virus xâm nhiễm tất cả cơ quan và mô.

+ Triệu chứng:

Trên chó: Thời kỳ ủ bệnh có thể thay đổi từ 7 ngày đến nhiều tháng. Đa số bệnh phát ra trong vòng 21 – 30 ngày sau khi con vật nhiễm virus dại. Virus có trong nước bọt khoảng 10 ngày trước khi con vật có biểu hiện các triệu chứng lâm sàng của bệnh. Các biểu hiện lâm sàng thường được chia làm 2 thể:

- Thể dại điên cuồng: gồm 3 thời kỳ

Thời kỳ tiền lâm sàng: Chó có dấu hiệu khác thường như trốn vào góc tối, kín đáo. Thái độ với chủ miễn cưỡng, hoặc trái lại tỏ ra vồn vã thái quá. Thỉnh thoảng tru lên từng hồi nghe hơi xa xăm.

Thời kỳ điên cuồng: các phản xạ vận động bị kích thích mạnh, cắn sủa người, la dữ dội. Chó liếm hoặc tự cắn, cào nơi vết thương do ngứa. Chó bỏ ăn, sốt, khát nước muốn uống nhưng không uống được. Chó bắt đầu chảy nước dãi, sùi bọt mép, bồn chồn, sợ sệt, cắn vu vơ, hay giật mình, đi lại không có chủ định, trở nên dữ tợn điên cuồng.

 

Thời kỳ bại liệt: Chó bị liệt hàm dưới và lưỡi nên trễ hàm và lưỡi thè ra ngoài, nước dãi chảy ra, không nuốt được thức ăn, nước uống. Chân sau liệt ngày càng rõ rệt. Chó chết sau 3 – 7 ngày sau khi có triệu chứng lâm sàng đầu tiên do liệt cơ hô hấp và kiệt sức do không ăn uống được. Thể dại điên cuồng chỉ chiếm 1/4 các trường hợp chó dại, số còn lại là thể dại câm.

- Thể dại câm: Thú không có các biểu hiện lên cơn dại điên cuồng như thường thấy. Chó chỉ có biểu hiện buồn rầu. Con vật có thể bị bại một phần cơ thể, nửa người, hai chân sau nhưng thường là liệt cơ hàm, mồm luôn hé mở, hàm trễ xuống, lưỡi thè ra. Nước dãi chảy lòng thòng, con vật không cắn, sủa được, chỉ gầm gừ trong họng. Quá trình này tiến triển 2 – 3 ngày. Thể này tiến triển nhanh hơn thể dại điên cuồng, thường chỉ 2 – 3 ngày vì hành tuỷ con vật bệnh bị virus tác động làm rối loạn hệ tuần hoàn và hô hấp sớm.

 

Trên người: Thời kỳ ủ bệnh tương ứng với sự di chuyển và nhân lên của virus. Thời gian này dài hay ngắn tuỳ thuộc vào quãng đường phải đi qua từ nơi vết cắn đến thần kinh trung ương. Thời gian ủ bệnh trung bình là 30 – 90 ngày (80% trường hợp), có những trường hợp nhanh dưới 20 ngày (5 – 10% trường hợp) hoặc chậm hơn 3 tháng (7 – 20% trường hợp). Thậm chí kéo dài hơn cả năm (1,8% trường hợp). Thời gian ủ bệnh ngắn nhất được tìm thấy khi vết cắn ở đầu, mặt, tay và đặc biệt là đối với trẻ em. Từ 2 – 4 ngày trước khi phát hiện, bệnh nhân thấy đau nhức, sưng tấy tại vết cắn có thể quan sát được. Những dấu hiệu này lan rộng dọc theo hệ thống thần kinh và hệ thống hạch bạch huyết, đồng thời với các triệu chứng trên còn có một số triệu chứng khác kèm theo: bồn chồn, thổn thức, la hét, chán nản vô cớ. Các biểu hiện lâm sàng được chia thành 3 thể:

- Thể co thắt: Đây là thể thường gặp nhất. Đặc điểm là co cứng, co thắt, co giật, run các cơ kể cả cơ ở mặt. Co thắt hô hấp và co thắt thanh quản là biểu hiện tổn thương hành tủy. Triệu chứng đặc trưng của bệnh nhân lên cơn dại là:

Sợ nước: bệnh nhân thường rất khát nhưng khi uống nước họ bị co thắt lồng ngực, bị ức chế thở và run cầm cập. Trạng thái này qua mau nhưng để lại ấn tượng kéo dài cho bệnh nhân, vì vậy họ không muốn uống nước mặc dù rất khát. Từ đó dẫn đến chỉ cần nhìn thấy 1 ly nước hoặc nghe tiếng nước chảy cũng sợ.

Sợ gió, sợ ánh sáng được mô tả tương tự. Tính cách bệnh nhân không bình thường, bệnh nhân bị phấn khích quá độ khi bị kích thích. Không phát hiện dấu hiệu mất tri thức. Những cơn co thắt đầu tiên còn xa nhau, càng ngày càng mau và thường tử vong sau 3 – 4 ngày do ngất hoặc ngạt trong một cơn co thắt sợ nước hoặc sau một cơn hôn mê.

- Thể liệt: Thể này hiếm hơn, kém điển hình hơn. Dấu hiệu phấn khích quá độ không có. Bệnh xuất hiện rất nhanh sau giai đoạn co thắt, run. Liệt có thể tiên phát và bắt đầu bằng liệt 1 chi hoặc 2 chi dưới rồi lan lên trên (hội chứng Landry) hoặc xuống dưới. Tử vong thường do ngạt hoặc ngất vào ngày thứ 4. Diễn biến bệnh không quá 4 – 10 ngày.

- Thể cuồng: Bệnh nhân bị kích thích quá độ, có những phản ứng dữ tợn, người bệnh trở lên hung bạo. Vì vậy bệnh nhân thường có những hành vi không bình thường như chống lại y bác sĩ và những người quanh mình. Thể trạng suy sụp nhanh, hôn mê, ngất và chết.

+ Phòng bệnh:

Khi đã lên cơn dại thì không thể chữa trị được kể cả người và động vật. Quản lý đàn chó là phương pháp hữu hiệu nhất, cần nâng cao ý thức trách nhiệm của người nuôi chó.

Đối với những người thường xuyên tiếp xúc với chó, mèo như: nuôi dưỡng, bác sỹ thú y điều trị, buôn bán, giết mổ, vận chuyển kinh doanh… phải đi tiêm phòng dại định kỳ bắt buộc.

Chỉ tiêm vắcxin dại nhược độc cho người khi bị chó cắn.

+ Xử lý khi bị chó cắn: Khi người bị chó hoặc súc vật cắn, cần phải xử trí vết thương theo trình tự như sau:

Xử trí tại chỗ: Rửa ngay thật kỹ vết thương bằng xà phòng đặc, nước muối đặc, dội nước sạch nhiều lần, bôi chất sát khuẩn như cồn và iốt đậm đặc nhằm sát khuẩn, giảm thiểu lượng virus dại ở vết thương. Không làm dập nát vết thương và chỉ khâu trong 3 - 5 ngày.  Sau đó, đến cơ sở y tế để được tiêm vacxin dại càng sớm càng tốt. Đối với người già, người có thai, người bị bệnh lao, bệnh thận, gan, tim mạch, sốt rét… cần hỏi bác sĩ chuyên khoa để được theo dõi tiêm và có ý kiến về cách điều trị.

Theo dõi chó khi bị cắn: nếu còn sống nên nhốt nó trong 15 ngày và theo dõi, nếu chó vẫn còn khoẻ mạnh thì có thể ngưng các biện pháp điều trị. Nếu chó bị đập chết, nên cắt đầu chó để xét nghiệm xác định bệnh dại.

BẢNG HƯỚNG DẪN XỬ LÝ KHI BỊ CHÓ CẮN

Bản chất sự tiếp xúc

Tình trạng động vật cắn đã hay chưa tiêm vắc xin

Thái độ xử lý

Khi cắn

15 ngày sau

Tiếp xúc khồng gây tổn thương trực tiếp hay gián tiếp

Khỏe mạnh

Khỏe mạnh

Không cần điều trị đặc hiệu

Khỏe mạnh

Bị dại

Liếm da, cào xước, cắn nhẹ các phần hở tay, chân, mình

Khỏe mạnh

Khỏe mạnh

Không điều trị

Nghi ngờ

Bị dại

Tiêm vắc xin

Khỏe mạnh

Tiêm vắc xin. Ngừng tiêm nếu sau 5 ngày ĐV vẫn khỏe mạnh

Bị dại, chó con hoặc không theo dõi được

Bị dại

Tiêm đủ liều vắc xin khi có chẩn đoán (+)

Liếm niêm mạc, cắn nghiêm trọng gây nhiều thương tích ở mặt, đầu, cổ, ngón tay

Dã thú, ĐV nghi ngờ hoặc bị dại không theo dõi được

 

Huyết thanh + vắc xin. Ngừng điều trị khi ĐV 5 ngày sau vẫn khỏe mạnh

 

+ Trách nhiệm của người nuôi chó:

Phải đăng ký số lượng chó nuôi với Trưởng ấp (Trưởng thôn) hoặc Tổ trưởng dân phố.

Tiêm phòng dại định kỳ hàng năm của cơ quan thú y. Thời điểm tiêm phòng: Tiêm lần đầu cho chó con được 4 tuần tuổi, nếu chó con được sinh ra từ chó mẹ đã được tiêm phòng thì tiêm cho chó con vào lúc chó được 3 tháng tuổi và sau đó tiêm nhắc lại mỗi năm một lần.

 

Phải thường xuyên xích chó, nuôi chó trong nhà, không được thả rông ngoài đường. Ở thành phố, thị trấn, khu dân cư khi dắt chó ra nơi công cộng phải có dây xích, phải rọ mõm và có người dắt, không để chó đi lang thang ngoài đường, phố làm mất vệ sinh nơi công cộng.

Mỗi hộ gia đình chỉ nên nuôi 1 - 2 con chó để giữ nhà. Trong trường hợp nuôi nhiều (trên 5 con không kể chó mới sinh) phải có tờ trình về điều kiện nuôi và được cơ quan thú y địa phương xác nhận đủ điều kiện vệ sinh thú y.

Vệ sinh sạch sẽ chuồng nuôi.

Khi phát hiện chó, mèo có những biểu hiện bất thường, bỏ ăn hoặc ăn ít, sốt cao, hung dữ khác thường thì báo ngay cho nhân viên thú y cấp xã.

Lưu ý: Chó chết do mắc bệnh dại hoặc nghi mắc bệnh dại phải đem chôn hoặc đốt xác.

Tóm lại: Cho đến nay, những vấn đề cơ bản về bệnh dại không còn là bức màn bí ẩn. Vì thế, việc trang bị kiến thức về nó, nhằm mục đích phòng chống bệnh kịp thời và tốt nhất là khá dễ dàng. Về mặt dịch tễ, để kiểm soát bệnh dịch cần có sự vào cuộc của cơ quan chức năng, thắt chặt quản lý, tăng cường lực lượng tiêm phòng, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra tiêm phòng của đội ngũ thú y viên đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa. Bên cạnh đó, việc tăng cường ý thức tự giác và hiểu biết về bệnh ngay chính ở người dân, chủ nuôi cũng không kém phần quan trọng.

Phòng Kỹ Thuật - Marketing - Công Ty TNHH NHÂN LỘC