Ngôn ngữ Viet Nam English
Sản phẩm mới
  • OVOLEAD
    CẢI THIỆN NĂNG SUẤT TRỨNG VÀ SẢN XUẤT GIỐNG
  • HCĐB
    Heo con lớn nhanh, da hồng, lông mượt, nở mông,...
  • B.COMPLEX – ...
    - Kích thích thèm ăn, trang trọng...
  • GLUCAN – C
    - Tăng cường miễn dịch, chống stress - Phòng bệnh tai...
  • ROMILK
    - Sữa bột chuyên dùng cho heo con - Thay thế...
  • Y – MOS
     Y –MOS là thành phần bổ sung thức...
  • Nutrase Xyla
      Men tiêu hóa giúp tăng năng...
  • FREE TOX
    Chất hấp thụ độc tố nấm mốc đa thành phần...
  • Manyang p
     Manyang p. là chất phụ gia thức ăn có...
  • CBN
    Hoạt chất tăng trưởng phi kháng sinh dùng cho...
  • COZYME 10X
    Men tổng hợp hỗ trợ tiêu hóa giúp...
  • CHOCOLATE ...
    Nguồn nguyên liệu kẹo đường Chocolate đặc biệt...
Nhận bản tin
Vui lòng nhập email để nhận bản tin
Kiến thức chăn nuôi -> Hỗ trợ kỹ thuật chăn nuôi
Tình hình sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi hiện nay

Sự phát triển nhanh chóng của ngành chăn nuôi dẫn đến tình hình sử dụng kháng sinh ngày càng gia tăng. Nhiều loại kháng sinh với tên thương mại khác nhau, phòng và trị bệnh khác nhau đã xuất hiện trên thị trường làm cho việc lựa chọn, sử dụng kháng sinh của người chăn nuôi khá phức tạp. Bài viết dưới đây sẽ tổng hợp một cách khái quát tình hình sử dụng kháng sinh trong ngành chăn nuôi (heo, gà, thủy sản) ở một số địa phương có ngành chăn nuôi phát triển.

1. Một số yếu tố liên quan đến việc sử dụng kháng sinh trong các trại  chăn nuôi

- Mục đích sử dụng kháng sinh: phòng – trị bệnh hay tăng trọng.

- Lựa chọn kháng sinh cần dựa vào vị trí nhiễm trùng và phổ tác dụng (nhiễm trùng do vi khuẩn nội bào thường sử dụng các nhóm: Quinolon II, Macrolid, Cyclin, Lincosamid, Phenicol).

- Liều lượng kháng sinh phụ thuộc vào các yếu tố: mức nhạy cảm của vi khuẩn gây bệnh đối với kháng sinh; tính chất dược động học của kháng sinh; vị trí của ổ nhiễm trùng; cơ địa gia súc; sử dụng phối hợp kháng sinh; thời gian sử dụng kháng sinh (sử dụng đúng liệu trình với từng kháng sinh).

àKhông nên vội vàng thay kháng sinh mà phải chờ một thời gian để phát huy tác dụng của kháng sinh.

- Thời gian ngưng thuốc trước khi xuất chuồng: đảm bảo thời gian ngưng thuốc theo khuyến cáo của nhà sản xuất.

- Phối hợp kháng sinh cần chọn những thuốc có tác dụng tăng cường lẫn nhau (tác dụng hợp đồng) hoặc các thuốc cộng hợp, tránh phối hợp các thuốc đối kháng (về hoạt tính hóa học cũng như tác dụng điều trị).

2. Tình hình sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi ở một số tỉnh của nước ta

2.1. Tình hình sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi heo

* Đồng Nai

- Kết quả khảo sát tình hình sử dụng kháng sinh ở 55 trại chăn nuôi heo tại 2 tỉnh Đồng Nai và Bình Dương (2007) có 13 loại kháng sinh được sử dụng nhiều nhất là Tylosin (16,39%), Amoxicillin (11,89%), Gentamycin (8,61%), Enrofloxacin (6,56%), Penicillin (6,15%), Lincomycin (5,74%), Tiamulin (5,74%), Colistin (5,33%), Streptomycin (4,51%), Norfloxacin (4,51%), Tetracyclin (4,1%), Ampicillin (4,1%) và Florphenicol (3,28%).

- Tỉ lệ mẫu thức ăn chăn nuôi có sử dụng kháng sinh lần lượt là: Tylosin 31/60 mẫu (51,67%), Tetracyclin: 25/60 mẫu (41,16%), Oxytetracyclin: 4/60 mẫu (6,6%) và Chlotetracyclin: 15/60 mẫu (25%).

- Số mẫu vượt quá quy định theo 10 TCN 861-2006: Tylosin: 1/60 (1,66%); Tetracyclin: 2/60 mẫu (3,3%); Oxytetracylin 1/60 mẫu (1,66%); Chlotetracyclin: 9/60 mẫu (15%).

* Bắc Giang

Thực hiện thí nghiệm ở 20 trang trại nuôi heo thịt (2014) tại địa bàn tỉnh cho thấy

- Có trên 17 loại kháng sinh được sử dụng trong các trại chăn nuôi. Trong đó, có 6 loại kháng sinh được sử dụng phổ biến trong chăn nuôi heo thịt là Norfloxacin (60,0%),  Tylosin (60,0%), Gentamycin (55,0%), Colistin (45,0%), Enrofloxacin (40,0%), Streptomycin (35,0%).

- Kết quả phân tích các mẫu thức ăn chăn nuôi heo thịt phát hiện thấy Oxytetracyclin 30%, Chlotetracyclin 30%, Tylosin 30%, Sulfadiazin 30%, Sulfamethazin là 20%, không có mẫu vượt tiêu chuẩn cho phép (QCVN 01-12:2009/BNNPTNT).

* Đắk Lắk

Có 15 loại kháng sinh được sử dụng trong chăn nuôi heo (2010). Trong đó, Oxytetracycline và Thiamphenicol (có tỷ lệ sử dụng như nhau 33,3%) là hai loại kháng sinh được sử dụng nhiều nhất, kế đến là Tetracyclin và Colistin (6,7%), Tylosin (6,1%). Các loại kháng sinh còn lại thì được sử dụng với tỷ lệ thấp (0,6 – 2,4%). Người nuôi heo tại địa bàn không dùng các loại kháng sinh cấm sử dụng, các kháng sinh hạn chế sử dụng thì cũng được dùng với tỷ lệ thấp (Norfloxacin 1,2% và Marbofloxacin 0,6%).

* Bình Dương

- Kết quả điều tra 628 hộ chăn nuôi heo, gà (2001 – 2002) ở địa bàn Bình Dương có 26 loại kháng sinh được sử dụng. Trong đó, kháng sinh thường sử dụng trong chăn nuôi heo là Chloramphenicol (17,91%), Tylosin (16,47%), Colistin (14,46%), Norfloxacin (9,56%), Ampicillin (7,99%).

- Kiểm tra 103 mẫu gan, thận, cơ heo, tỷ lệ tồn dư kháng sinh quá mức quy định (so với tiêu chuẩn Malaysia) là 45,63%. Các kháng sinh tồn dư là Chloramphenicol, Oxytetracylin, Chlortetracylin, Norfloxacin, Tylosin.

2.2. Tình hình sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi ở gà

* Bắc Giang

Thực hiện thí nghiệm ở 20 trang trại nuôi gà thịt (2014) tại địa bàn tỉnh cho thấy

- Có 6 loại kháng sinh thường sử dụng phổ biến nhất đối với các trang trại chăn nuôi gà thịt là Doxycyclin (55,0%), Tiamulin (50,0%), Tylosin (45,0%), Colistin (40,0%), Enrofloxacin (40,0%), Chlotetracyclin (35,0%).

- Đối với thức ăn chăn nuôi gà thịt Chlortetracyclin chiếm 30%, Sulfadiazin 40%, Doxycyclin 30%, Tylosin 20% và Sulfamethazin 10%, không phát hiện thấy có kháng sinh Oxytetracyclin trong các mẫu thức ăn phân tích, không có mẫu vượt tiêu chuẩn cho phép (QCVN 01-10: 2009/BNNPTNT).

Tuy nhiên, không có mẫu thức ăn nào chứa hàm lượng kháng sinh vượt quá giới hạn cho phép nhưng chính sự có mặt của chúng đã góp phần tạo ra tồn dư kháng sinh trong thịt. Như vậy, trong một số mẫu thức ăn chăn nuôi được kiểm tra đã xuất hiện từ 2 loại kháng sinh trở lên, với hàm lượng thấp không đủ để kích thích tăng trọng, nhưng có thể gây ảnh hưởng không tốt đến cơ thể động vật, đồng thời tạo điều kiện cho các loại vi khuẩn kháng lại các thuốc trên. Do đó, cần tuyên truyền về kỹ thuật sử dụng kháng sinh hợp lý để tạo ra các sản phẩm có nguồn gốc động vật sạch và an toàn cho người tiêu dùng.

* Hải Phòng

- Kết quả điều tra 135 cơ sở chăn nuôi gà ở Hải Phòng (2011) cho thấy người chăn nuôi sử dụng ít nhất 38 loại kháng sinh thuộc hơn 10 nhóm khác nhau, không chỉ để phòng trị bệnh mà còn dùng ở liều thấp để kích thích sinh trưởng.

- Ít nhất 8 loại kháng sinh (Chlortetracycline, Oxytetracyclin,  Maduramycin, Monensin, Salinomycin, Bambermycin, Bacitracin methylene-disalicylate (BMD) và Colistin) được sử dụng ở liều thấp để kích thích sinh trưởng bằng cách trộn trong thức ăn công nghiệp hoặc người chăn nuôi tự trộn. Trong số đó, hai kháng sinh Salinomycin (31 hộ sử dụng) và Chlortetracycline (29 hộ sử dụng) được sử dụng nhiều nhất.

- Đối chiếu qui chuẩn quốc gia số QCVN01-10:2009 (Bộ NN&PTNT, 2009) qui định về hàm lượng kháng sinh, hóa dược tối đa cho phép trong thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh cho gà, trên địa bàn Hải Phòng các hộ chăn nuôi đã sử dụng bất hợp pháp ba kháng sinh Maduramycin, Bambermycin và Colistin.

* Bình Dương

- Kết quả điều tra 628 hộ chăn nuôi heo, gà (2001 – 2002) ở địa bàn Bình Dương có 26 loại kháng sinh được sử dụng. Trong đó, kháng sinh thường sử dụng trong chăn nuôi gà là Gentamycin (16,13%), Norfloxacin (11,93%), Trimethoprime (11,61%), Tylosin (8,39%), Colistin (7,74%), Chlortetracyline (7,74%), Amoxilin (6,45%).

- Trong 149 mẫu cơ, gan gà nghi ngờ tồn dư kháng sinh có 44,96% mẫu tồn dư quá quy định. Các kháng sinh tồn dư là Chloramphenicol, Oxytetracylin, Tylosin, Amoxillin, Gentamycin, Flumequin, Spiramycin.

2.3. Tình hình sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản

* Sóc Trăng và Bạc Liêu

Điều tra 60 hộ nuôi tôm, người bán, phân phối thuốc ở Sóc Trăng và Bạc Liêu (2004) có 19 loại kháng sinh được sử dụng. Trong đó, nhóm kháng sinh Fluoroquinolones (enrofloxacin, Norfloxacin và axit oxolinic) được sử dụng nhiều nhất trong khu vực khảo sát. Sulfonamides được sử dụng kết hợp với Norfloxacin và Trimethoprim hoặc Sulfonamides kết hợp với Trimethoprim để phòng trị bệnh thuộc nhóm Vibrio. Chloramphenicol không sử dụng trong khu vực khảo sát.

* Trà Vinh (2014)

Các hộ nuôi tôm thường mua thuốc để phòng bệnh cho tôm theo hướng dẫn của chủ sở kinh doanh thuốc hoặc theo hướng dẫn của các hộ nuôi khác, nhiều khi sử dụng cả thuốc nhân y như Berberin. Ngoài ra, một số hộ nuôi đang sử dụng Josamycin và Trimethoprim (không có trong danh mục thuốc TYTS được phép lưu hành) để trị các bệnh về phân trắng. Hầu hết các cở sở nuôi ở Huyện Cầu Ngang đều có sử dụng nguyên liệu Oxytetracycline để chữa bệnh khi tôm có biểu hiện nghi ngờ nhiễm bệnh.

* Cà Mau

Qua điều tra 80 hộ nuôi tôm công nghiệp tại tỉnh Cà Mau (2005) có 8 loại kháng sinh chính được sử dụng Ampicillin (8,75%), Oxytetracyclin (21,25%), Neomycin(10%), Streptomycin (11,25%, Norfloxacin (18,75%), Flumequin (12,5%), Sulfadimidin (10%), Pyrimethamine (7,5%). Trong đó có 2 loại kháng sinh thuộc nhóm kháng sinh hạn chế sử dụng theo quyết định số 07/2005/QĐ – BTS của Bộ Thủy Sản là Ampicillin và Oxytetracylin. Không có trường hợp các hộ nuôi tôm sử dụng kháng sinh trong danh mục cấm sử dụng của Bộ Thủy Sản.

KẾT LUẬN

Tình hình sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi hiện nay khá phức tạp vì vậy khi lựa chọn, sử dụng kháng sinh người chăn nuôi nên lựa chọn kháng sinh phù hợp với tình hình dịch bệnh của trại, kiên trì sử dụng đúng liệu trình khuyến cáo của nhà sản xuất, không nên tăng liều vượt quá quy định. Có thể sử dụng acid hữu cơ, enzyme, các chế phẩm giàu kháng thể, probiotic hoặc thảo dược để thay thế kháng sinh nhằm tránh tồn dư kháng sinh trong sản phẩm chăn nuôi gây ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng, vật nuôi và môi trường.

                                                                                           Phòng kỹ thuật - Marketing - Công ty TNHH Nhân Lộc

Tài liệu tham khảo

1. TÌNH HÌNH SỬ DỤNG KHÁNG SINH TRONG CHĂN NUÔI LỢN THỊT, GÀ THỊT Ở MỘT SỐ TRẠI CHĂN NUÔI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC GIANG – Dương Thị Toan, Nguyễn Văn Lưu -  Khoa Chăn nuôi thú y, Trường Đại học Nông Lâm Bắc Giang.

2. Luận văn Thạc sĩ ĐIỀU TRA TÌNH HÌNH SỬ DỤNG KHÁNG SINH TRONG CHĂN NUÔI HEO, DƯ LƯỢNG KHÁNG SINH VÀ BORAX TRÊN THỊT HEO TẠI HUYỆN EAH’LEO – TỈNH ĐẮK LẮK – Võ Thị Thu Hoa – Trường Đại học Tây Nguyên.

3. KHẢO SÁT TÌNH HÌNH SỬ DỤNG KHÁNG SINH TRONG CHĂN NUÔI VÀ DƯ LƯỢNG KHÁNG SINH TRONG QUẦY THỊT HEO, GÀ THƯƠNG PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƯƠNG – Đinh Thiện Thuật, Võ Bá Lâm, Khương Thị Ninh – Chi cục Thú y tỉnh Bình Dương và Nguyễn Ngọc Tuân, Võ Thị Trà An, Lê Thanh Hiền – Khoa CNTY Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh.

4. ĐIỀU TRA TÌNH HÌNH SỬ DỤNG KHÁNG SINH TRONG CHĂN NUÔI GÀ Ở THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG - Phạm Kim Đăng , Nguyễn Tú Nam , Bùi Thị Tho , Phạm Hồng Ngân - Đại học Nông Nghiệp Hà Nội và  Lương Xuân Thế - Xí nghiệp thuốc thú y TƯ.

5. Đề tài KHẢO SÁT HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG HÓA CHẤT, KHÁNG SINH VÀ CHẾ PHẨM SINH HỌC TRONG NUÔI TÔM SÚ CÔNG NGHIỆP TẠI TỈNH CÀ MAU – Trương Quang Vinh – Khoa Thủy sản trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh.

6. SỬ DỤNG KHÁNG SINH TRONG CHĂN NUÔI THÚ Y Ở VIỆT NAM - TS. Nguyễn Quốc Ân - Phó trưởng Phòng Quản lý thuốc, Cục Thú y.

7. KHẢO SÁT TÌNH HÌNH SỬ DỤNG THUỐC  - HÓA CHẤT TRONG NUÔI TÔM VÀ SỰ TỒN DƯ CỦA ENROFLOXACIN VÀ FURAZOLIDONE TRONG TÔM SÚ – Huỳnh Thị Tú, Nguyễn Thanh Phương... – Đại học Cần Thơ.

8. Tình hình sử dụng thuốc và chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản tại một số tỉnh  (24/11/2014) – Tổng cục Thủy sản.